TỨ ĐẠI DANH CA của miền Nam Việt Nam – Tiểu luận của Khuất Đẩu

 

 

 

Nghe tin nữ danh ca Lệ Thu qua đời, tôi bỗng nhớ hai câu thơ trong bài Long thành cầm giả ca của đại thi hào Nguyễn Du: “Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong, Ca vũ không lưu nhất nhân tại”! (Tây Sơn cơ nghiệp tan rồi/ chỉ còn sót lại một người cầm ca!). Chỉ trong vòng 20 năm, cơ nghiệp của Tây Sơn, tuy chưa hiển hách như của Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, nhưng cũng có thể nói là rất oai hùng với chiến thắng long trời lở đất quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút và quân Thanh ở gò Đống Đa. Một triều đại với các danh tướng như Trần Quang Diệu, Ngô Văn Sở, Bùi Thị Xuân và các nhà mưu lược như Nguyễn Thiệp, Ngô Thì Nhậm…thế mà chỉ sau cái chết của vua Quang Trung, tất cả đã sụp đổ tan tành trước một đội quân của Nguyễn Ánh suốt bao năm chỉ lo trốn chạy từ Côn Lôn đến Phú Quốc và cầu viện hết quân Xiêm đến quân Pháp. Có khác gì một nửa nước được hình thành sau hiệp định Giơ neo, gọi là Việt Nam cọng hòa, với một triệu quân đầy đủ các binh chủng, thêm nửa triệu quân Mỹ và đồng minh, vậy mà chỉ hơn một tháng quân miền Bắc “xanh xao vì thiếu đói” đã chiếm trọn miền Nam, đúng là “nhất đán tận tiêu vong!

Thi hào Nguyễn Du đã rất chua xót khi nhận định cái cơ nghiệp lẫy lừng của Tây Sơn, sau 20 năm chỉ còn lại một người Cầm ca vừa già, vừa xấu và rách rưới. Miền Nam cũng vậy thôi, hơn 20 năm với bao nhiêu cuộc đảo chánh, chỉnh lý, hết phế truất đến bầu cử ứng cử, với một tổng thống bị bắn chết trên đường ra trình diện, một tổng thống bỏ nước cứu lấy nhà, một phó tổng thống già lên thay thế được 7 ngày và cuối cùng một cựu đại tướng được cử làm tổng thống vỏn vẹn có 3 ngày chỉ đủ để đầu hàng! Ngần ấy con người, ngần ấy sự kiện để rồi còn lại một ông hoàng nhạc bolero sáng vất vưởng nơi đầu đường, tối ngủ cạnh nhà xí công cọng, sau cùng nằm chết cong queo “chết thật hiền từ” bên đôi dép rách!

Lệ Thu, Thái Thanh, Khánh Ly, Thanh Thúy… bốn đại danh ca, cũng có thể là bốn đại mỹ nhân, nếu không “tìm đường trốn nước”, thì chắc gì không như cô kỳ nữ dưới thời Tây Sơn kia. Sách báo in trước 75 bị kết án là đồi trụy, phản động, nhạc bị mỉa mai, khinh bỉ là vàng vọt bệnh hoạn, bị cấm đoán, bị tịch thu. Họ phải “đi” thôi, không phải tìm “giấc mơ Mỹ” mà tìm đất sống, nhất là tìm đến những xứ sở mà người ta không cấm mình ca hát. Rất may, tuy cuống rốn của đất mẹ đã bị cắt lìa, nhưng họ lại tìm được trên xứ người hàng triệu người mất nước nhưng chưa mất tiếng nói, hãy còn yêu tiếng Việt và càng yêu hơn qua tiếng hát của không chỉ bốn đại danh ca mà còn của hàng trăm ca sĩ trẻ hơn đẹp hơn xếp sau lưng họ.

Bốn đại danh ca ấy là bốn ngọn núi sừng sững trong làng âm nhạc Việt Nam.

 

 

 

 

Thái Thanh với tiếng hát được nhà văn Mai Thảo xưng tụng là “vượt thời gian”, trước và sau cô, chưa có ai đưa tiếng hát lên tận mây trời, chưa ai luyến láy réo rắt cực kỳ điêu luyện như cô. Nghe cô hát, nhất là nghe bài Tình Ca của Phạm Duy “tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”, quả thật nơi xứ người, ai nghe mà không cảm thấy lòng mình rưng rưng muốn khóc, và chợt nhận ra rằng sao cái “tiếng nước tôi” nó ngọt ngào thiết tha đến như vậy. Tôi rất không ưa hai tiếng “tự hào” được các nhà đài sử dụng bậy bạ đến sáo mòn, còn hơn tự hào, tôi thấy vô vàn biết ơn tổ tiên tôi đã gìn giữ, lưu truyền một thứ tiếng đúng như các nhà truyền giáo Tây phương đã kinh ngạc khi muốn dùng mẫu tự la tinh để phiên âm, một tiếng nói ngân nga nghe như chim hót. Rồi bà mẹ quê vất vả trăm chiều nuôi một đàn con chắt chiu… Cảnh làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi…hay những con đê dài ngây ngất…Dĩ nhiên, là câu chữ của Phạm Duy, tuy không phải là nhà văn hay nhà thơ nhưng ông là người sử dụng tiếng Việt tinh tế nhất, đúng chỗ nhất, nhất là khi đặt nó vào giữa trái tim của mọi người. Nhưng làm cho nó trở nên sống động thiết tha, trở nên xao xuyến bồi hồi là do tiếng hát của Thái Thanh, một tiếng hát chẳng những “vượt thời gian” mà còn có mãnh lực hết sức siêu phàm. Bởi vì, giọng hát của cô không chỉ đưa hồn người nghe lên tận thiên đường hạnh phúc mà còn đưa họ xuống tận địa ngục, tận đáy sâu của khổ đau qua Nghìn trùng xa cách của Phạm Duy hay Nửa hồn thương đau của Phạm Đình Chương. Nhưng, với Dòng sông xanh, ta lại nghe ra một giọng hát thật nhí nhảnh, trẻ trung vẽ nên hình ảnh vui tràn trề của những cô gái tóc vàng sợi nhỏ đang đùa giỡn trên làn sóng xanh sông Danube. Cũng có người bảo rằng, cô là người của ban nhạc thời danh Thăng Long, được các ông anh nâng niu uốn nắn từ bé nên giọng hát của cô có thể nói là hết sức điêu luyện, từ phát âm đến nhấn nhá, luyến láy, đạt đến độ nhuần nhị cứ như từ trong máu huyết tuôn ra. Đến mức không ai đạt tới ngay cả con gái yêu của cô là Ý Lan. Theo tôi, cũng như nhiều người miền Bắc, cô chịu ảnh hưởng chẳng những từ núi Tản sông Hồng mà còn từ những làn điệu quan họ, từ tiếng đàn nhịp phách và luyến láy của ca trù, tập luyện rất công phu, nghe và hiểu được đã là khó nói gì đến hát, mà lại hát thật hay nữa thì quả thực không dễ.  Có thể nói, giọng hát của Thái Thanh rất giàu màu sắc, giàu nhân ái, đương nhiên cũng rất giàu tình cảm, một giọng hát không phải vượt, mà song hành cùng với thời gian để đi đến nơi cùng tận.

 

 

 

Có một giọng hát, không thể gọi là đối lập nhưng gần như hoàn toàn khác hẳn, ấy là của Lệ Thu. Tuy cùng là người miền Bắc, nghe đâu cũng có học piano và học trường tây nên ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng nhạc tây phương, dù hát rất hay, nhưng trước khi được mời mọc, nài ép để đứng trên bục hát, cô chưa bao giờ mơ rằng mình sẽ thành ca sĩ. Cái duyên ngẫu nhĩ trùng phùng từ một lần hát mừng sinh nhật cô bạn ở nhà hàng Bồng Lai với bài Tà Áo Xanh của Đoàn Chuẩn đã lọt vào đôi tai Chung Tử Kỳ của ông chủ nhà hàng tinh đời. Bùi tai, trốn mẹ đi hát ở nhà hàng, rồi nghỉ học để hát ở phòng trà, vào studio để thu đĩa, thu băng… tự nhiên và dễ dàng giống như chiều chủ nhật tung tăng đi bát phố cùng các bạn rồi mỏi chân tạt vào quán ăn kem vậy. Tôi chưa có được cái may mắn nghe cô hát ở nhà hàng hay phòng trà, những nơi mà anh học trò kiết xác như tôi chỉ dám đứng nhìn (trộm) từ xa. Nhưng lần đầu tiên nghe cô hát bài Ngậm ngùi qua sóng radio, tôi bàng hoàng nhận ra, lục bát của Huy Cận sao mới lạ và ngọt ngào đến như vậy. Đọc câu thơ “nắng chia nửa bãi, chiều rồi”, tôi thấy cái chữ chia có vẻ thô mộc vụng về, chỉ đến khi nghe tiếng “chia” cô hát mới thấy nó vừa ngộ nghĩnh vừa sinh động. Rõ ràng, tiếng “chia” qua môi miệng cô khiến cho cái lằn mép giữa tối và sáng bỗng như đang nhảy múa. Đến câu cuối, tay anh em hãy tựa đầu, cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi, thì dịu ngọt quá, dễ thương quá, trái sầu nào đó chắc không phải sầu riêng, mượt như nhung cùng với tiếng hát ấm như vừa được hâm nóng rơi xuống, thì trái tim đàn ông nào mà không rộng mở đón mời.

Một lần khác qua đài VOA, bài Con Thuyền Viễn Xứ, nghe mấy tiếng sóng Đà giang, đường về cố lũy, cố lũy xa xôi, sao thấy nó gần gũi cứ như là tên sông, tên đường của chính thôn làng mình vậy. Rồi những bài như Tôi đưa em sang sông, Mười năm tình cũ… có cách chia, có xót xa, có đau đớn nhưng rõ ràng là không vàng một cách bệnh hoạn mà là vàng của “vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông”. Có buồn đấy, nhưng không “rầu”, buồn một cách khỏe mạnh, cũng là nhờ trong giọng hát của cô lúc nào cũng rạt rào suối nguồn của thương yêu. Nhưng, tuyệt vời nhất với tôi, chính là lúc nghe cô hát Mùa thu chết, những âm “chết” cứ nối tiếp nhau bay vút lên như pháo bông, buồn và đẹp làm sao! Người ta bảo định mệnh hay duyên kiếp đã trói buộc cô với hai tiếng “lệ thu”, đến nỗi Phạm Duy đã lấy cảm hứng từ tên cô mà sáng tác bài Nước mắt mùa thu rất nổi tiếng. Nhưng cô lại hiểu chữ “lệ” là đẹp, như hoa lệ, mỹ lệ, và cô hát một cách tỉnh táo không để chuyện riêng của mình làm buồn lòng người nghe. Tôi cũng nghĩ như vậy. Cái đẹp của giọng hát cô, đúng là nét đẹp của mùa thu, của trời rất xanh, của nắng rất vàng, của gió rất nhẹ và của mây rất trắng, mây xứ Đoài của Quang Dũng khi nhớ tới đôi mắt người Sơn Tây. Một điều hay và đẹp nữa, là mỗi chữ nhả ra từ môi miệng cô đều rất tròn, rất chuẩn và rất rõ, không như nhiều người khác cố làm ra vẻ trọ trẹ hay lơ lớ, dù cô ít nhiều chịu ảnh hưởng các ông tây bà đầm ở trường học. Cô hát thật lòng, không bao giờ hát theo kiểu trả bài, hát cho lấy có. Cô là một nghệ sĩ rất mực nghiêm chỉnh. Cô bảo, một nhà khoa học đã từng bỏ công ra nghiên cứu và tính được rằng, nếu một ca sĩ hát với tất cả tình yêu, tất cả năng lực, nghĩa là dốc hết cả tâm hồn mình vào bài hát thì cũng tốn sức như đã lao động đến 6 giờ bằng chân tay. Thế mà có lần cô hát đến 10 bài để đáp lại lòng đợi mong của hàng ngàn Việt kiều ở Âu châu. Như vậy, tuy cô hát có vẻ dễ dàng, không tập luyện gì nhiều, nhưng không thể bảo đó là giọng hát của trời cho, có phúc cứ việc hưởng. Vì tự trọng, vì yêu quý khán giả, cô vẫn miệt mài tập luyện từ trong ý thức và ngay cả trong vô thức. Cho đến khi cô phải nhập viện vì con virus Vũ Hán, cô vẫn đi hát thiện nguyện, cô còn đùa cho đến khi phải chống gậy, vẫn lên sân khấu để hát. Giờ, cô đã đi theo đàn chị Thái Thanh, xác thân sẽ hòa cùng cát bụi, nhưng nói như cụ Nguyễn Du, rằng “thác là thể phách còn là tinh anh”. Cái còn lại chính là tiếng hát của hai người, tiếng hát đẹp rạng ngời của tiếng nói Việt Nam.

 

 

 

Một tiếng hát hiếm có nếu không muốn nói là rất độc đáo, tiếng hát buồn tê tái, như cất lên từ những thôn làng bị giặc đốt phá, từ những hành lang chật cứng người tị nạn đói khát nằm chồng chất lên nhau, từ những con phố không đèn đêm nay thiếu ánh trăng… Có người còn bảo là tiếng hát liêu trai, tiếng hát lúc không giờ, nghĩa là có gì ma mị, rờn rợn cứ như tiếng hát cất lên từ mồ ai mới đắp! Tôi muốn nói tới tiếng hát Thanh Thúy. Vì gia cảnh, cô phải đi hát rất sớm để nuôi mẹ bệnh và nuôi em. Cô không được cái may mắn lọt vào tai Chung Tử Kỳ như Lệ Thu, cứ phải đứng thập thò ở bên ngoài phòng trà, mãi rồi mới được cho hát thử. Đến khi được bước lên bục hát cô vẫn mặc áo dài trắng học trò, có đính một băng tang nhỏ trên ngực. Nhưng không phải vì vậy mà giọng hát cô trở nên buồn lạnh, hoang liêu. Cái buồn lạ lùng ấy là buồn của trời cho, cũng có thể là cái buồn của cả thời đại thấm vào từng lời hát, cho nên khi xuất hiện nó khiến người nghe sững sờ, xúc động. Một người có trái tim dễ rung động như Trịnh Công Sơn, không thể không vì cô mà làm bài Ướt mi, hay nhà thơ Hoàng Trúc Ly đã phải thốt lên: Từ em tiếng hát lên trời, Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh, Sợi buồn chảy xuống lòng anh, Lắng nghe da thịt tan tành hư vô. Đến cả những giáo sư đại học uyên bác như Nguyễn Văn Trung cũng phải viết về cô.

Không phải là nắng mới, cũng không phải là làn gió lạ, lại càng không phải là cơn địa chấn, cô chỉ là một cô gái nghèo, nhưng khi xuất hiện trên bục hát, cô là cả nỗi đời quạnh hiu, là nỗi đau dài của những cuộc chia ly… Cô hát mà như độc thoại, đối diện với hư vô, đằng sau và đằng trước, bên trái và bên phải đều là quá khứ, một giọng hát không hướng về tương lai, bỏ quên hiện tại nhưng vẫn được mọi người ngay cả những người lính đang ngày đêm chiến đấu ngoài mặt trận ái mộ hết mình, thế nên mới gọi cô là một hiện tượng lạ của nền ca nhạc miền Nam. Là người Huế chính gốc nên không ai hát hay hơn cô bài Đêm tàn bến Ngự và Tiếng xưa của Dương Thiệu Tước. Nghe hai bài hát này, ta vừa thấy được nét vàng son vương giả của cố đô, nhưng cũng lại thấm đẫm những cơn mưa ướt lạnh sụt sùi, mưa chi mưa mãi mưa mãi mưa hoài của xứ Huế mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn. Nghe giọng hát cô, nhìn dáng dấp của cô, lại biết cô hát ở phòng trà, vũ trường nhiều người lầm tưởng cô chỉ sống về đêm như một vũ nữ thân gầy. Nhưng tất cả đều lầm. Cô có một đời sống rất đàng hoàng mẫu mực, là người con rất chí hiếu, người chị biết bảo bọc thương em. Cô lấy chồng khá sớm, một sĩ quan không quân, và mặc dù đi hát, kiếm được nhiều tiền, được nhiều giải thưởng, được nhiều người săn đuổi, nhưng cô vẫn chí thiết chung tình. Sau 75, cô dành tiền bạc và thì giờ cứu giúp những nghệ sĩ ở các trại tị nạn, những thương bệnh binh và hiện nay là các công tác thiện nguyện.

 

 

 

Có một giọng hát thủa ban đầu rất bụi, hát trên bãi đất trống sau trường đại học văn khoa, người hát không son phấn, đi chân đất, nhạc sĩ sáng tác và đệm đàn (thùng), là một thanh niên bỏ dạy, trốn lính, chỉ hát chùa cho sinh viên nghe, cả hai đã bất ngờ được người nghe nâng lên ngang hàng với Phạm Duy, Lệ Thu, đó là cặp đôi hát mộc Trịnh Công Sơn và Khánh Ly. Với tôi, Khánh Ly hát hay nhất ở những ca khúc da vàng của nhạc Trịnh. Người ta bảo đây là những ca khúc phản chiến, nhưng theo tôi, đó là những bài hịch được hát thành lời, như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi…Hịch là những lời kêu gọi không để chiến đấu mà để yêu thương, kêu gọi những đứa con cùng cha, hãy xích lại gần nhau, hãy quên hận thù……..Khánh Ly hát chùa trong bao nhiêu năm, cùng chịu đói khát, bị rượt đuổi phải trốn chui trốn nhủi, nhưng vẫn gắn bó với Trịnh Công Sơn, là một cặp đôi hiếm có trong làng nhạc miền Nam. Khi Trịnh Công Sơn chuyển qua sáng tác những tình khúc với lời ca mới lạ, từ ngữ cách tân, tiếng hát Khánh Ly lập tức trở thành hiện tượng. Cái giọng khàn khàn bùi bụi, trầm đục đến nỗi có người bảo giống như tiếng mèo gào trong đêm khuya, rất nồng nàn gợi dục, là tiếng kêu của những người tình lạc nhau trong suốt cơn mê dài. Dù sau 75, một cô gái trẻ nõn nường cặp với Trịnh Công Sơn, cùng hát cùng chơi với Trịnh, là Hồng Nhung, nhưng tài nghệ và tình cảm không thể nào sánh với Khánh Ly được.

 

 

Không chỉ bốn giọng hát tuyệt vời, mỗi người một giọng riêng biệt không lẫn vào ai, mà còn có cả hàng chục, hàng trăm những giọng khác, như thể trăm hoa cùng nhau đua nở dưới ánh nắng Sài Gòn rực rỡ và tự do. Đó là cái thắng của bên thua cuộc. Và thắng đậm khi hiện giờ sau bốn mươi năm hơn, ai muốn hát bài nào cứ việc hát, không cần phải xin phép! Điều đó chứng tỏ một cách mạnh mẽ rằng, dù bị cấm đoán, bị cầm tù, bị đày đọa, cái Đẹp của Nghệ thuật vẫn không thể bị hủy diệt, cái Đẹp vẫn sống mãi để cứu rỗi cả thế giới, nói như Dostoievsky.

Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài này, tôi muốn nói, chính các nghệ sĩ miền Nam chứ không phải tổng thống hay tướng lĩnh nào, lại càng không phải Mỹ, đã cứu hai mươi năm của Việt Nam Cộng hòa khỏi bị chôn vùi dưới đám lá mục của lịch sử. Thật đáng trân trọng!

Khuất Đẩu

20/1/2021

Nguồn: vanchuongviet.org

 

 

6 comments on “TỨ ĐẠI DANH CA của miền Nam Việt Nam – Tiểu luận của Khuất Đẩu

  1. Cảm ơn một bài viết rất hay. Tứ đại danh ca mà tôi rất yêu mến. Hôm nay tôi mới coi buổi tâm tình của TT với khán giả rất hay. Chúc TT luôn khỏe và tinh thần thoải mái.

    Đã thích bởi 1 người

  2. Một bài tiểu luận quá xuất sắc. Vừa mới đọc vào tiêu đề của bài nghiên cứu tôi đã có cảm tình. Tác giả viết chắc tay, kiến thức sâu rộng “thông kim bác cổ”. Xin chân thành cảm ơn tác giả Khuất Đẩu đồng cám ơn BĐH đã chia sẻ bài viết. Đối với tôi, khi tôi được thụ hưởng bất cứ thành quả nào từ người khác mang lại tôi đều mang trong lòng niềm biết ơn sâu sắc.
    Bài viết đã nói sâu kỹ đặc trưng về tiếng hát của từng Cô. Những tiếng hát khi cất lên không lẫn với ai được. Bản thân tôi, khi tôi đem lòng yêu mến và ngưỡng mộ một người nghệ sĩ nào đó bên cạnh tài sắc vấn đề mà tôi quan tâm nữa đó là nhân cách của họ, trong Truyện Kiều đại thi hào Nguyễn Du có viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Những nữ Danh ca trong bài viết này gần như Tài – Tâm – Đức của các Cô đều vẹn toàn, sáng ngời. Sau đây tôi xin được bày tỏ một chút cảm nhận và tình cảm của tôi dành cho mỗi Cô.
    Với cô Thái Thanh – “Tiếng hát vượt thời gian” (xin phép cho tôi gọi các Cô như vậy cho thân mật tôi ít khi dùng Đại danh ca vì trong lòng tôi họ đã là những tượng đài bất tử rồi) tôi yêu Cô từ khi tôi nghe Cô hát: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi! Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi! Tiếng ru muôn đời…”. Khi Cô cất tiếng hát lên trái tim tôi rung động tôi cảm tưởng như đây là một giọng hát nào đó từ cõi thiên thai lạc xuống trần gian. Tôi yêu tiếng nước tôi bởi “Tiếng tôi còn là nước tôi còn” (Phạm Quỳnh) chính vì vậy tôi yêu “Tình ca” của ông Phạm Duy và tôi càng yêu hơn cô Thái Thanh mỗi khi Cô hát: “Vì yêu, yêu nước, yêu nòi. Ngày Xuân tôi hát nên bài ư bài Tình ca. Ruộng xanh tươi tốt quê nhà. Lòng tôi đã nở như là ừ là đóa hoa…”. Giờ đây, Cô đã đi xa nhưng tôi tin rằng: “Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh” tiếng hát của Cô sẽ vĩnh hằng với thời gian và còn mãi trong lòng người mộ điệu.
    Với cô Lệ Thu – “Tiếng hát vàng mười” tôi thích nhất Cô hát nhạc phẩm “Xin còn gọi tên nhau” của nhạc sĩ Trường Sa: “Tiếng hát bay trên hàng phố bâng khuâng” mỗi lần nghe tôi như thấy trước mắt mình hiện ra từng thước phim quay chậm tái hiện lại hình ảnh của Sài Gòn hoa lệ trước 75 với những con người lịch lãm, hào sảng, những tiếng nhạc cùng với những giọng ca trác tuyệt trong không khí phòng trà lúc Sài Gòn về đêm. Với một đứa sinh sau đẻ muộn như tôi thì cũng lắm thiệt thòi bởi tôi không được tận mắt thấy, tận tai nghe “tinh anh phát tiết ra ngoài” của những tinh hoa miền Nam thời bấy giờ. Nên tôi chỉ có thể hình dung lại qua phim ảnh, văn thơ và âm nhạc. Giọng hát của cô Lệ Thu đầy nội lực, sang trọng và quý phái. Giọng hát của Cô không làm cho người ta cảm thấy thương cảm khi nghe mà nó làm cho người ta phải thán phục. Cô Lệ Thu là người Bắc nhưng tôi rất thích cách nói chuyện thẳng thắng, sòng phẳng của Cô, lần nào vô tình nghe được Cô nói chuyện trên các Talkshow tôi cũng thấy vui vẻ và dễ chịu. Tôi thích Cô ở tính tình khẳng khái, bộc trực như một người miền Nam chánh hiệu. Có một điểm tôi rất giống Cô là mê sách, dường như trước khi ngủ mà không đọc một cái gì đó là Cô trằn trọc không thể nào ngủ được. Cho đến hôm nay, cảnh “Nổi chìm kiếp sống lênh đênh” của Cô đã khép lại. Cô đã đến chốn mà “Ở nơi này tất cả hóa thành thơ”. Nguyện cầu Cô yên an trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.

    Với cô Thanh Thúy – “Tiếng hát liêu trai” – Nữ hoàng của trái tim tôi. Tôi biết nói sao cho đủ, nói sao cho hết bởi ngôn từ của tôi không đủ để chuyển tải hết được sự ngưỡng mộ cũng như yêu thương tôi dành cho Cô hai mươi năm qua. Kể từ nhạc phẩm “Chuyến tàu hoàng hôn” mà tôi được nghe Cô hát đầu tiên nó đã in hằn trong tâm trí non nớt của tôi và sau đó hình ảnh Cô đã in sâu nơi trái tim tôi. Có lẽ tôi phải mượn hai câu thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh có chỉnh biên một chút để nói về tình yêu của tôi dành cho Cô: Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa. Nhưng biết yêu Cô cả khi chết đi rồi. Tôi tin khi đọc đến đây sẽ có người cho tôi là sáo rỗng, nhưng không đây là những lời tận sâu nơi trái tim tôi đấy. Đọc bài này, tôi càng thương cô Thúy của tôi hơn, đọc đến câu “Cô chỉ là cô gái nghèo” tôi thấy cay cay ở sóng mũi. Tôi thương cô Thúy “mình hạc xương mai” của tôi mong manh như một cành liễu mà phải sớm dày dạn với gió sương, với vất vả, gánh nặng gia đình nỡ đè lên “đôi vai gầy ướt mềm” của Cô. Nhưng cũng cảm ơn hoàn cảnh, cảm ơn gian khó đã cho tôi có được một cô Thúy trên cả tuyệt vời. Bởi những con người đẹp nhất là những con người từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát và đã tìm được đường ra khỏi vực sâu. Ở những người này họ có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời. Cuộc đời đã làm cho họ tràn đầy sự cảm thông, sự dịu dàng, biết quan tâm và yêu thương sâu sắc. Người đẹp không tự nhiên mà có, nhưng ở đây cô Thúy tôi vừa đẹp vừa có đủ những phẩm chất cao quý nói trên. Tôi thỉnh thoảng cũng có nghe một vài bài mà tôi thích từ những nghệ sĩ chân chính khác, tôi cũng cảm thấy họ hát rất hay nhưng có một điều mà tôi chỉ cảm nhận được mỗi khi nghe cô Thúy tôi hát thôi đó là cảm thấy “THƯƠNG” nghe đến đâu là thương đến đấy, càng nghe càng chỉ thấy thương thêm không sao diễn tả cho hết được. Tiếng hát của cô Thúy tôi trầm, buồn sâu lắng mỗi khi Cô hát như mang nỗi buồn từ kiếp nào nữa theo về. Tiếng hát của Cô mang lại cho tôi sự thương cảm và thấu cảm với những phận đời, những kiếp người buồn tênh. Con người giống như cửa sổ kính nhuộm màu. Họ bừng sáng và lấp lánh khi được chiếu ánh sáng mặt trời; nhưng khi mặt trời lặn, vẻ đẹp thực sự của họ chỉ lộ ra nếu có ánh sáng từ bên trong. Quả đúng như vậy cô Thúy tôi đã bừng sáng cả một thanh xuân tươi đẹp và rực rỡ, và giờ đây khi tuổi đã xế chiều vẻ đẹp thực sự của cô Thúy tôi vẫn lấp lánh vì có ánh sáng từ một trái tim rất đẹp soi chiếu. Bây giờ, điều tôi tha thiết nhất là cô Thúy của tôi luôn khỏe, luôn vui. Nếu có một nơi nào thực hiện việc quy đổi tuổi tác tôi nguyện là người đầu tiên làm việc này vì Cô. Tôi mãi yêu Cô – Tình yêu Thanh Thúy của tôi! ❤️

    Và cuối cùng là cô Khánh Ly – “Nữ hoàng nhạc Trịnh” tôi chỉ biết Cô là người hát nhạc của ông Trịnh Công Sơn nhiều nhất và theo nhiều nhận xét thì Cô là người hát nhạc của ông Trịnh Công Sơn hay nhất. Còn về Cô thì tôi không được biết nhiều nên tôi không thể viết những điều tôi không biết. Tôi xin kính chúc Cô Khánh Ly luôn được bình an và mạnh khỏe.
    Phan Thiết 17/02/21
    Diệu Quỳnh

    Đã thích bởi 3 người

  3. Chí thiết chung tình…và cả tận tình nâng khăn sửa túi đến quá độ thất thập cổ lai hi, tiền hậu như nhất.
    Ôi Cô Thuý của con, con thương Cô nhứt trên đời!
    Vậy mà Cô hổng nhận nuôi con làm con gái. Hic

    Đã thích bởi 1 người

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s