Nếu như không có đại nạn năm 1975, thì có lẽ Âm Nhạc Việt Nam đã khác rồi – Lê Xuân Trường

Lịch sử Việt Nam khi đất nước bị phân chia bắt buộc phải cuốn vào cuộc chiến và gánh chịu nhiều hậu quả khốc liệt của chết chóc, ly tán, mất mát và đau buồn. Những nỗi niềm u uất buồn thảm là tâm trạng chung đều được các nghệ sĩ có tài đem vào các tác phẩm văn chương nghệ thuật, và chỉ có các ca sĩ thời danh cũ trong miền Nam mới thể hiện tuyệt vời các bản sầu ca ấy. Vì sao? vì họ đã từng sống trong giai đoạn ấy và khi họ trình diễn thì cũng như chính họ kể lại một đoạn đời đắng cay sầu thảm của mình. Họ đã thả hồn vào bài nhạc, và người nghe cảm thấy gần gũi và được vuốt ve vì họ cũng cảm nhận có một phần đời lạc loài của mình trong bài hát.

Nhạc bây giờ lời lẽ vu vơ, ngang phè. Các ca sĩ trẻ trong nước tự hào là được đào tạo từ Nhạc Viện nên vững về thanh nhạc và hát rất hay nhưng khi trình bày những ca khúc của nhạc sĩ miền Nam vẫn chưa lột hết được ‘phần hồn’ của nó. Vì thứ âm hưởng buồn não nề, thê lương, nghẹn ngào, đau đớn, tiếc nuối, ngầm chan chứa nỗi bất hạnh nhưng nó không hề toát ra nỗi uất hận người, hận đời … Nó vẫn còn ẩn mang một khát khao vượt thoát, một sự khoan thứ cao thượng, một sự nâng niu trân trọng tất cả những gì quý giá còn lại, dù là mỏng manh nhất, trong những gì bị coi là đổ vỡ, bị coi là thất bại…

Một giòng nhạc, những ca khúc luôn có một dĩ vãng và khi người nghe đã từng trải nghiệm sống trong giai đoạn ấy thì mối cảm thụ lại càng thêm sâu sắc. Vì thế người ta vẫn còn thích và nhớ nhiều đến nhạc xưa vì nó đã ghi dấu một giai đoạn lịch sử đau thương của đất nước, chập chờn hư ảo với đói khổ, nghèo nàn, chết chóc, chia ly… mà trong văn học vẫn chưa có tác phẩm nào có tầm, vô tư nói lên được nỗi khổ đau không thốt được bằng lời của dân tộc mà không bị vướng víu với lập trường chính trị.

Trong khi di sản âm nhạc của miền bắc sau chiến tranh thật nghèo nàn không đủ cung cho nhu cầu mới nên dần dà người miền nam sử dụng lại những bản ‘nhạc vàng’ gợi nhớ, rồi những băng đĩa từ hải ngoại đua nhau tràn ngập thị trường chui nội địa đã dấy lên một trào lưu ‘tìm về dĩ vãng’.

Các nhạc sĩ trong miền Nam đã bị xóa tên nhưng những di sản để lại trong nền văn học, nghệ thuật, văn hóa giáo dục với sự đóng góp của các người ấy phải là không đáng trân quí. Cái hay sẽ tồn tại bằng mọi cách và cái dở, sẽ đi vào thùng rác; chẳng cần đến cơ quan quản lý văn hóa chỉ đường để ‘giáo dục về thẩm mỹ âm nhạc’ theo lối biện luận dao to búa lớn, vớ vẩn.

Âm Nhạc Việt Nam đã đến lúc tắt lịm. Những tinh hoa, những niềm tự hào của Âm Nhạc Việt Nam đài truyền hình nơi đây không đài nào phát tuyến, chỉ toàn những âm nhạc nhí nhố thì là đầy dẫy. Những ca khúc từ tiền chiến cho đến năm 1975 với chất thơ trong nhạc luôn có sức hút với khán thính giả đứng tuổi. Đọng lại trong lòng khán thính giả vẫn là những ca khúc dạt dào cảm xúc. Tìm kiếm những ca khúc hay và ý nghĩa như nhạc xưa thực sự khan hiếm ở thời điểm này. Ai có một chút văn hóa âm nhạc tối thiểu cũng không khỏi nhăn mặt khó chịu, lắc đầu ngao ngán khi vô tình xem những chương trình ca nhạc vốn từng được xem là có uy tín nhưng ngày càng nhiều loại ca sĩ, ca khúc mang đầy văn hóa Hàn quốc, Trung quốc .

Nếu như không có đại nạn năm 1975, thì có lẽ Âm Nhạc Việt Nam đã khác rồi.


Khám phá thêm từ Thanh Thúy

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không hiển thị công khai. Các mục bắt buộc được đánh dấu *