-
Ảnh ban nhạc Khánh Băng – Phùng Trọng từ trái sang phải: Khánh Băng (guitar) – Duy Khiêm (bass), Phùng Trọng (trống), Nguyễn Ánh 9 (Piano) chụp khoảng năm 1966-1967
Trong những lần trò chuyện cả đêm, Khánh Băng kể người viết nghe nhiều giai thoại lý thú về cuộc đời Ông.. Có nhiều việc đồng nghiệp, người đọc đã biết, nhưng cũng có những mẫu chuyện Ông chưa hề tiết lộ. Mời bạn đọc nghe chuyện lòng của nhạc sĩ Khánh Băng qua những lần Ông tâm sự khoảng năm 1995.. ..
“Từ thuở nhỏ tôi đã yêu thích âm nhạc nên tự luyện đàn Mandolin. Đã từng hợp tác với anh Đoàn Kỳ Quận dàn dựng, tập luyện và trình diễn với các em học sinh trong những buổi cắm trại và những buổi lễ bãi trường. Từ năm 1948, lúc 14 tuổi, tôi đã tập sáng tác. Sau khi hoàn thành bản nhạc nào, tôi liền gửi lên Saigon cho anh Võ Đức Thu. Tôi quen anh Võ Đức Thu qua sự giới thiệu của người bạn tôi và cũng là em của anh Võ Đức Thu là Võ Đức Hảo. Sau khi sửa chữa những chỗ sai sót, anh Võ Đức Thu còn ghi chú thêm những luật lệ về sáng tác. Sau đó, Ông mới gửi trả về Vũng Tầu cho tôi bằng những bao thư có dán tem sẵn. Nói về mặt sáng tác, đây là lối học hàm thụ mà tôi đã được Ông Võ Đức Thu chỉ dẫn và khuyến khích rất nhiều.
Sau mùa Hè năm 1949, tôi phải lên Saigon học trường Huỳnh Khương Ninh (Đa Kao) vì lúc đó ở Vũng Tầu không có bậc Trung học. Năm 1954, vì có sự khuyến khích của bạn bè, tôi tham dự trong cuộc tuyển lựa Tài Tử ở Saigon tổ chức tại rạp Nam Việt. Sau đó tôi được tuyển chọn làm nhạc công ở Đài phát thanh Saigon với cây đàn Mandolin. Vì tôi sáng tác rất nhiều nên không thể nhớ được bản nhạc nào là bản nhạc đầu tiên.. nhưng có một kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên, đó là chiều ngày thứ ba 15 tháng 3 năm 1955 trong chương trình thường trực của Đài phát thanh Saigon, nhạc phẩm đầu tiên của tôi được trình diễn, đó là bài Nụ Cười Thơ Ngây với hai giọng hát Minh Trang và Anh Ngọc. Vì nhận thấy với cây đàn Mandolin không thể phát huy tối đa bằng cây đàn guitar nên tôi bắt đầu tập khổ luyện thêm đàn guitar từ năm 1953-1954 theo phương pháp methos Caroly.
Năm 1955, tôi gia nhập ban Sầm Giang của anh Trần Văn Trạch và ban kịch Dân Nam của Anh Lân và chị Túy Hoa với sự giới thiệu của Tùng Lâm. Từ năm 1955-1959 tôi thường xuất hiện trên các sân khấu Đại Nhạc Hội và phụ diễn ca nhạc với tiết mục độc tấu guitar thùng. Năm 1960 tôi chuyển qua guitar điện và biểu diễn hàng đêm tại các phòng trà ca nhạc do tôi làm chủ trong khu giải trường Thị Nghè.
Năm 1962, nhờ sự giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông với hãng dĩa Sóng Nhạc, dĩa nhạc đầu tiên của tôi ra đời với những ca khúc do tôi sáng tác như Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Lưu luyến, Đêm cô đơn.. Thành phần ban nhạc lúc bấy giờ gồm có Khánh Băng, Phùng Trọng, Dương Quang Định và Dương Quang Lê Minh. Vào năm 1964, ban nhạc của tôi là ban nhạc trình diễn trước tiên trong dịp lễ khai trương của Đài Truyền Hình VN. Năm 1966, ban nhạc của tôi với thành phần Khánh Băng, Phùng Trọng, Nguyễn Ánh 9, Duy Khiêm cùng với 2 nữ ca sĩ Mary Linh và Phước Vân được trao tặng Huy Chương Vàng do Hội ký giả tổ chức tạp rạp Quốc Thanh.
Năm 1967 vì là ban nhạc thường trực của Đài Truyền Hình nên ban nhạc tôi có sự thay đổi: Khánh Băng, Phùng Trọng, Nguyễn Thành (saxo, Tenor), Thôi Phước (trumpet), Sầm Sơn (guitar bass). Từ tháng 3 năm 1973, tôi sang lại nhà hàng kiêm vũ trường Hawaii lầu 4 số 6 đường Bùi Viện để tự khai thác biểu diễn hàng đêm cho đến ngày 20 tháng 3 năm 1975 thì bị đình chỉ hoạt động vì tình hình an ninh chung.
Cuối năm 1991, tôi bắt đầu sáng tác trở lại cho đến nay (LTS – khoảng năm 1995) đã được 156 bài. Trong số này, có nhiều bài đã được phổ biến tại thị trường Việt Nam khoảng 70 bài và một số ít ở thị trường hải ngoại. Hơn 50 năm phục vụ văn nghệ trong lĩnh vực sáng tác, tôi không nhớ chính xác là mình đã viết bao nhiêu bài, “nói 500 thì quá ít, mà 1000 lại hơi nhiều”.
Năm 1967, tôi được mời vào Hội S.C.A.C.E.M Paris với 2 nhạc phẩm Johnny Mon Amour tức Sầu Đông và Vọng Ngày Xanh với lời Pháp của nữ văn sĩ Francoise Sagan viết lời Pháp. Từ năm 1966-1970, ban nhạc của tôi trình diễn trong hầu hết các Club Mỹ tại Saigon, căn cứ Long Bình, phi trường Biên Hòa, căn cứ Long Thành, căn cứ Phú Lợi”..
Những lời tâm sự của Ông với tôi ngày đó đến nay cũng đã 20 năm rồi. Khánh Băng là một nhạc sĩ tài hoa, đức độ từ lúc bước chân vào làng âm nhạc. Mười mấy năm sau cùng, đôi mắt Anh bị mù lòa, đi đâu cũng phải có người chở. Mộng ước cuối đời của Khánh Băng là được sang Hoa Kỳ thăm thân nhân và bằng hữu, nhưng vì hoàn cảnh tài chánh cũng như thủ tục giấy tờ quá chậm chạp rắc rối, thành thử niềm mơ ước đó mãi mãi chẳng bao giờ đạt được.
Trước hai tháng Ông từ trần, Ông tổ chức sinh nhật mình ngày 25 tháng 12 năm 2004 ngay tiệm Phở của Giao Linh với sự tham dự của nhiều bạn bè thân như Châu Kỳ, Mặc Thế Nhân, Quốc Dũng, Hoàng Trang, Đài Phương Trang, Trang Mỹ Dung, Tú Trinh, Lan Ngọc, Hồng Vân, Đào Hoa Nữ.. ngay tối hôm đó, Ông bị té cầu thang và gẫy tay.
Một nén nhang xin được thắp lên tưởng niệm nhớ về Ông, cũng như nhớ về những ca khúc của Khánh Băng, còn có những biệt hiệu khác như Anh Minh, Nhật Hà.. Mười năm đã qua, mỗi khi cơn gió lạnh cuối Đông thổi sầu về, lại nhớ đến sinh nhật 25 tháng 12 của người.. Ôi 10 năm khuất bóng Khánh Băng, sầu đông nào sao vẫn chưa tan..
-
Ban nhạc Khánh Băng với Lê Duyên, Khánh Băng, Phùng Trọng, Duy Mỹ
-
Ảnh chụp tháng 7 năm 1957 tại rạp Thống Nhất với Nguyễn Long, Lê Duyên (mandolin), Ngọc Minh Hà, Khánh Băng, Huỳnh Hoa (Saxo). Hình này do con trai NS Ngọc Minh Hà tặng TQB hồi tháng 2 năm 1996
-
Khánh Băng và những cộng tác với ban nhạc The Dew Drop Band
-
Khánh Băng trên một bài nhạc của Ông
(trích bài viết của Trần Quốc Bảo đăng trong tuần báo Việt Tide phát hành ngày thứ sáu 6 tháng 2 năm 2015)

Trần Quốc Bảo