
Trang Y Hạ trước 1975 sống ở Kontum hai mươi năm, làm việc cho VNCH 7 năm, Sau 1975 đi cải tạo cũng 7 năm tại trại K4 Long Khánh. Hiện định cư tại San Francisco, Bắc California
Đón xuân trong tù
Trên vọng gác con quạ nhìn tứ phía
rào kẽm gai trơ trẽn níu chân tù
rừng hoang sơ sương phủ lạnh âm u
tù “cải tạo” mơ màng chi ngày tết
sáng mồng một ngó nhau cười méo xệch
nghỉ một ngày “tươm tất” đón nàng xuân
không nói ra đôi mắt đã rưng rưng
môi mím chặt chảy vào lòng nỗi nhớ
chờ ngày tết khẩu phần thêm tý mỡ
miếng bánh chưng cọng thêm chút mứt gừng
mấy thằng tù xúm nhau lại chúc xuân
chúc sức khỏe – thêm tuổi tù – may mắn
thằng lắm ghẻ cởi trần ngồi phơi nắng
giữa thanh thiên bạch nhật đón xuân về
gom nỗi buồn quắc mắt ngó sơn khê
bên kia núi là quê nhà trông đợi
thằng tù tội là mang thân tầm gửi
bám vợ con cha mẹ với anh em
chờ thăm nuôi căng mắt biết bao đêm
họa bám giữ làm sao đành chối bỏ
khẩu phần tết vái ông bà để đó
tin quê nhà như gió thoảng mây bay
thằng bạn ngồi cầm miếng bánh trên tay
cắn chút xíu – nuốt theo dòng nước mắt
những cái tết trôi qua trong hiu hắt
đôi chân cùm “hồ hởi” đón xuân sang
nàng xuân về im lặng chẳng hỏi han
bước ỏn ẻn lướt qua vùng nắng ấm
xuân thuở trước có khi nào lạ lẫm
sao bây giờ sầm sập gót phân ly
chim heo kêu ớn lạnh báo hồn quy
năm ba đứa tù ra: đồi-hoang-vắng
tết ai vẽ cho lòng thêm cay đắng
dưới vòm trời hữu hạn ngắm mây trôi
ôm thân tù tâm sự với đơn côi
nghe tiếng muỗi quen tai đêm chờ sáng.
Trang Y Hạ – 1982
Thân tặng các bạn tù…!
Tâm sự người thương binh
Tao bị thương hai chân,
Cưa ngang đầu gối!
Vết thương còn nhức nhối.
Da non kéo chưa kịp lành…
Ngày ” Giải phóng Miền nam “
Vợ tao ”Ẵm” tao như một đứa trẻ sơ sanh…!
Ngậm ngùi rời ”Quân-Y-Viện“
.
Trong lòng tao chết điếng
Thấy người lính miền Bắc mang khẩu súng AK!
Súng ”Trung cộng” hay súng của ”Nga”?
Lúc này tao đâu cần chi để biết.
Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do miền Nam
-Nước Việt,
Mang chữ ”NGỤY” thương binh.
Nên ”Người anh em phía bên kia…”
Đối xử với tao không một chút thân tình…!
.
Mày biết không!
Tao tìm đường về quê nhìn không thấy ánh bình minh.
Vợ tao: Như ”Thiên thần” từ trên trời rơi xuống…
Nhìn hai đứa con ngồi trong căn chòi gió cuốn
Bụi đất đỏ mù bay !
Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay
Làm sao ”Ôm” nổi bốn con người trong cơn gió lốc.
Cái hay là: Vợ tao dấu đi đâu tiếng khóc
Còn an ủi cho tao, một thằng lính què!
.
Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
Làm “Đôi chân” ngày ngày đi lại
Tao quét nhà, nấu ăn, giặt quần, giặt áo…
Cho heo ăn thật là “thoải mái” !
Lê lết ra vườn: Nhổ cỏ, bón phân
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi
Bông trổ trắng ngần!
Lên liếp trồng rau, thân tàn tao làm nốt.
Phụ vợ đào ao sau vườn, rồi thả nuôi cá chốt.
Đời lính gian nan sá gì chuyện gío sương…
.
Xưa, nơi chiến trường
Một thời ngang dọc.
Cụt hai chân.
Vợ tao hay tin nhưng không “buồn khóc”!
Vậy mà bây giờ…
Nhìn tao… nuớc mắt bả… rưng rưng!
.
Lâu lắm, tao nhớ mầy qúa chừng.
Kể từ ngày, mày “Được đi cải tạo”!
Hàng thần lơ láo – Đau xót cảnh đời…
Có giúp được gì cho nhau đâu khi:
Tất cả đều tả tơi!
.
Rồi đến mùa “H.O”
Mầy đi tuốt tuột một hơi.
Hơn mười mấy năm trời…
Không thèm quay trở lại
Kỷ niệm đời Chiến binh
Một thời xa ngái.
Những buổi chiều ngồi hóng gió nhớ… buồn hiu!
Mai mốt mầy có về thăm lại Việt nam
Mầy sẽ là “Việt kiều”!
Còn “Yêu nước” hay không – Mặc kệ mầy.
Tao đếch biết !
Về, ghé nhà tao.
Tao vớt cá chốt lên chưng với tương…
Còn rượu đế tự tay tao nấu
Cứ thế, hai thằng mình uống cho đến… điếc!
Tháng Tư lại về
“…vui sao nước mắt lại trào…”
Tháng tư về, có người buồn – buồn lắm!
vết dao xưa, vẫn cứa – cứa bấy nay
tháng tư ngồi, thân nửa tỉnh nửa say
nước đã mất thuyền tìm đâu ra bến!
buổi quăng súng nghe tim đau hổn hển
nhìn làng quê thân thiết mãi lùi xa
trên đường quê hiu hắt bóng mẹ già
bầy con nít bơ vơ đi lánh giặc.
đứa con gái cõng em lòng se sắt
bước chân đi – đi vào cõi mộng du
phía sau lưng khói lửa réo mịt mù
thân chưa chết mà coi như đã chết.
con chim nhạn bay về phương nào hết
bỏ khung trời nắng gió cháy tháng Tư
màu khói lam giăng mắc bóng tạ từ
chuông thánh thót từng hồi xua quỷ sứ.
dòng Bến Hải trải buồn ra viễn xứ
biển Thuận An máu đỏ cuộn linh hồn
thuở Mậu Thân oan khiên phủ càn khôn
sông Hương nghẹn đứng dòng không chảy nổi.
người dân Nam đã làm gì nên tội
chợt rùng mình nhớ “đại lộ kinh hoàng”!
vô Đà Nẵng sóng biển người nắng chang
nhìn trời thẳm – tự do hay là chết.
Ban Mê Thuột, đường 7 B chấm hết
dòng sông Ba chặn họng xuống Tuy Hòa
đêm Cao nguyên không có ánh châu sa
có tiếng hát ru con chờ trời sáng.
nhìn thân thể mỗi ngày thêm nức rạn
những con người trừng mắt ngó Đại Dương
hai mươi năm bom đạn xé quê hương
rồi một thoáng cúi đầu ôm tủi nhục.
tay ghì súng – lệnh đầu hàng – vô phúc!
chim đại bàng vội vỗ cánh bay nhanh
tướng, anh hùng tuẫn tiết trọn với thành
hồn: Hoàng Diệu – …Tri Phương – Phan Thanh Giản!
bước từng bước trong đêm dài vô hạn
miền Nam ơi – nước mất cửa nhà tan!
mảnh tang thương ập xuống quá phủ phàng
thân chủ tướng cúi đầu làm Lưu Thiện.
những cô gái suốt đời chưa làm mẹ
những cựu binh không đủ sức cầm cày
những phế binh lê lết quá đắng cay
bao công trạng một thời bay theo gió.
người dân Việt khắp hành tinh – giọt nhỏ!
ngày Ba Mươi…, ngày quốc hận tang thương
mặt trận tàn, xương cốt vất chiến trường!
ai là kẻ đốt nén nhang tưởng nhớ?
thù người chết, khu Nghĩa Trang… xói lở
mấy mươi năm cô lập chẳng dám thăm
xin sửa sang, cứ lần lữa – biệt tăm
đất xà xẻo hoang tàn cây cỏ mọc!
người quả phụ năm xưa quay về khóc
len lén nhìn phía trước ngó phía sau
không dám gào, môi mím chặt nỗi đau
từng ngôi mộ ôm tháng ngày sứt mẻ.
……..
tháng Tư lại về cúi đầu sám hối
nén nhang bay – khói tỏa khắp sơn khê
chút lòng thành xin đừng có khen chê
“địa linh… kiệt” – giữ non sông gấm vóc.
Ba bảy năm – nửa đời người
sao con không thấy mẹ cười, mẹ ơi!
nguồn: daihocsuphamsaigon.org
Khám phá thêm từ Thanh Thúy
Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.
