Tình người – phụ bản 15G: Pam Baker – một con người, một tấm lòng. AFR Dân Nguyễn

 

 

Nhân đọc bài “Cốt cách Tô Cách lan” của lão Cua, lại được gợi ý những ai có kỷ niệm nào về con người xứ sở nơi đây, nên tôi viết đôi dòng về một con người mà tôi ngưỡng mộ.

Bà là luật sư Pam Baker, một người Tô Cách Lan mà tôi từng biết, từng được bà giúp đỡ nhiều. Hai mươi năm rồi, chẳng biết bà ở phương trời nào. Nay mượn lại nhan đề một bài viết của chính tôi về bà – một bài viết đăng trên Tuần san TV tại Úc hai mươi năm trước, như một lời tri ân gởi tới bà.

Mới đó mà đã hơn 20 năm. Thời gian như thoi đưa. Tôi nhớ lần đầu tiên tôi được gặp luật sư Pam Baker – một bà già nhỏ thó như một bà mẹ VN thời xưa. Năm ấy, khoảng 1992, bà là người Tô Cách Lan, là luật sư đồng thời là chủ tịch nhóm quan tâm tỵ nạn (Refugee Concern). Bà thường xuyên ra vào các trại cấm (closed camp) tại Hồng Kông, nơi giam giữ hàng trăm ngàn thuyền nhân VN (boat people), đang trong tiến trình chờ thanh lọc xác định thân phận tỵ nạn và cho định cư tại một nước thứ ba.

Năm ấy bà đã già lắm, hơi thở tuy mệt nhọc, nhưng cũng không ngăn nổi bước chân bà đến với thuyền nhân.  Bà là mẹ nuôi của nhiều mảnh đời bất hạnh, dành sự quan tâm đặc biệt cho những trẻ vị thành niên, chạy sang Hồng Kong mà không thân nhân hay người đi kèm (minor).

Bà cũng dành sự ưu ái cho những người có vợ hoặc chồng hoặc con cái chết trên biển, không đến được bến bờ. Bà Pam không chỉ đem công sức bênh vực thuyền nhân, mà còn bỏ tiền mua quà, quần áo thuốc men cho những thân chủ của mình, những con người gầy đen, bẩn thỉu bệnh tật…

Có nhiều luật sư được Cao ủy tỵ nạn Liên Hợp Quốc hay Chính phủ Hồng Koong thuê để thực hiện Chương trình thanh lọc. Nhưng những ai được bà Pam nhận trách nhiệm bảo vệ đều nuôi niềm hy vọng vào tương lai không phải quay về VN.

Tôi cũng được bà Pam Baker, vốn là một luật sư giỏi, bảo vệ. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa bất cứ hồ sơ nào qua tay bà thì tương lai của người được bà bảo vệ sẽ được định cư ở một nước thứ ba.

Nhiều người phải quay lại nước thứ nhất, nơi mình bỏ trốn chui nhủi ra đi. Có nhiều người được bà bảo vệ đã hớn hở cho ngày chiêm ngưỡng tượng Nữ thần Tự do, Tháp Effel, hay một bến bờ tự do nào khác ở Phương Bắc xứ cối xay gió, hay phương Nam xứ sở của loài Kangaroo. Nhưng nhiều người cũng phải ngậm ngùi say good bye bà để đối mặt với Cột cờ Hà Nội.

Dù đi đâu về đâu, dù thần may mắn mỉm cười với họ nơi “đất thánh” hay họ phải âu sầu quay về cố quốc, trong lòng họ vẫn lưu giữ hình ảnh bà Pam và những tình cảm không nhạt phai. Sự quan tâm, ánh mắt thân thương của bà nhìn họ như bàn tay dịu dàng của một người mẹ vỗ về, xoa dịu cơn đau, là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn băng giá của họ.

Tôi nhớ bà gặp tôi nhiều lần. Một trong những lần gặp đó, bà tặng tôi cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” (của nhà văn Bảo Ninh). Cuốn sách photo, đóng bìa xanh giấy cứng đơn sơ. Bà biết tôi là một trong số những người đang được Inter Pen đệ trình Cao ủy cho thân phận tỵ nạn tại chỗ. Tôi nhớ mỗi khi gặp tôi, câu đầu tiên bà nói bao giờ cũng là: “Hello, Mr Bac!…”, kèm với ánh mắt thân thương đầy cảm thông, thấu hiểu cứ ngước nhìn vào mắt tôi mãi.

Rồi bạo loạn trong trung tâm White Head xảy ra trong những ngày tháng cuối cùng của một chương về người tầm trú VN. Thế giới đã quá mệt mỏi với dòng người tỵ nạn VN đổ về các nước trong khu vực tưởng chừng nối dài không bao giờ dứt.

“Hồi hương tự nguyện” và cả “Hồi hương cưỡng bức” được xúc tiến song song. Trước khi chuyển ra một trại mà ai cũng biết những người phải đến đó là đối diện với chương trình hồi hương cưỡng bức, vấn đề chỉ còn là thời gian, tôi mong được gặp bà Pam. Không phải là để cầu cứu bà, vì tôi biết những gì có thể làm cho tôi, bà đã làm rồi. Tôi muốn gặp bà để gửi bà giữ hộ một số sách quý mà tôi biết nếu về VN, nó sẽ bị người ta tịch thu, hơn nữa tôi sẽ bị rắc rối về chúng.

Đó là tập truyện ngắn “Gái Hà Nội khóc ai”, của nhà văn Văn Thanh (Lý Kiệt Luân) từ Mỹ gửi tặng tôi; là cuốn “Nước mắt trước cơn mưa” của một nhà văn, giáo sư người Mỹ viết về sự sụp đổ của Sài Gòn. Cuốn sách dày như một cuốn tự điển cả nghìn trang với trên 500 bức ảnh tư liệu quý về những ngày tàn của cuộc chiến tranh VN. Cuốn sách in bằng thứ giấy tốt đóng bìa đẹp, công phu.

Tôi muốn gửi lại cho bà Pam Baker giữ hộ, nhưng chẳng còn cách nào. Chỉ còn vài tiếng nữa chúng tôi phải chuyển trại giam. Ngắm nghía  những cuốn sách đó lần cuối, tôi bọc chúng trong giấy báo, bên ngoài đề To Pam Baker, the lawyer of  Refugee Concern.

Tôi để lại những cuốn sách đó với sự thương tiếc, với niềm hy vọng nó sẽ được ai đó hảo tâm như bà chuyển đi theo địa chỉ ghi ở trên. Nhưng tôi cũng biết niềm hy vọng đó nhỏ nhoi lắm, nhỏ nhoi chẳng khác nào người đi biển thả một cái chai xuống biển, bên trong là một lá thư, mong mỏi thông điệp trong chai sẽ được ai đó vớt lên đọc.

Tôi chuyển tới trại mới được một tháng thì vợ con đăng ký hồi hương tự nguyện. Tôi quyết định ở lại, không phải hy vọng sẽ được đi định cư ở một nước thứ ba. Tôi chấp nhận để  người ta cưỡng bức hồi hương, cắt hết tiền trợ cấp tái hội nhập tại VN. Đơn giản vì tôi muốn tiếp tục chứng minh: Tôi là một người tỵ nạn (A real refugee).

Vài tháng sau khi vợ con về lại VN, đến lượt tôi. Tôi được chuyển ra nhà tù Victoria, chờ chuyến bay cưỡng bức. Dăm ngày sau khi đến nhà tù, và mười ngày trước khi về VN, tôi bất ngờ được bà Pam Baker vào thăm. Cùng đi với bà có một nữ văn sỹ viết tay trái – một lady có đôi mắt xanh thẳm, nhưng tóc đen nhánh và da ngăm. Bà Pam chỉ chào hỏi tôi, còn bà dành thì giờ hầu hết cho nữ nhà văn này phỏng vấn tôi.

Tôi không chú tâm tới cuộc phỏng vấn dù biết đây là cơ hội cuối cùng, nghĩa là cơ hội cho tôi định cư vẫn chưa hết. Tôi muốn trở về VN càng sớm càng tốt, vì thương nhớ vợ con. Mặt khác, tôi cứ tiếc vì nếu biết có cơ hội gặp lại luật sư Pam Baker, có lẽ tôi đã không để lại những cuốn sách quý bên trong cái trại hoang ngổn ngang đồ vật.

Năm 2000, tôi trở lại thăm Hong Kong và mang theo một kỷ vật. Nghe nói bà Pam Baker, “người mẹ thuyền nhân” vẫn còn ở lại đó, nên tôi đã mua một bức tranh đẹp về Ha long để tặng bà. Bức tranh khá lớn, cắm điện vào, cảnh trời nước Halong xanh biếc sẽ rực sáng tinh khôi.

Tôi đến Hong Kong, đi hỏi nhiều địa chỉ để tìm gặp và tặng bức tranh cho bà. Mất mấy ngày đi tìm, nhờ người bạn cùng trại trước đây, giờ được định cư tại Hong Kong thuộc diện những người không quốc tịch (hay không tổ quốc). Tôi đã không gặp được bà, và tặng lại ông bạn bức ảnh về Hạ Long đó.

Để lại bức tranh, cũng như lúc gửi mấy cuốn sách đề tên bà Pam Baker, tôi bỗng nhớ lại người đàn bà nhỏ nhắn xứ Tô Cách Lan đầy cương nghị, đã giúp bao thế hệ thuyền nhân người Việt đến bến bờ tự do. Có người không thể tới như thần may mắn, bằng cách này hay cách khác, cũng tìm được giấc mơ của riêng mình, bởi có một người từ xứ sở sương mù nhưng lại mang vừng dương đến cho nhân loại.

AFR Dân Nguyễn

HM blog. Tôi tìm trên mạng thấy thông báo về bà Pam Baker đã mất 24-4-2002, thọ 71 tuổi. Bà được coi là một luật sư đấu tranh hết mình cho quyền tỵ nạn của người Việt, Florence Nightingale của Hong Kong.

Tác giả AFR Dân Nguyễn không biết rằng, thời gian 1993-1995, lão Cua từng làm cho UNHCR tại Hà Nội. Lão lọ mọ sửa một cơ sở dữ liệu trên Foxpro, quản lý hơn 100 ngàn người tỵ nạn hồi hương…có trật tự. Ngày nào cũng in danh sách bay trên máy in kim Epson để UNHCR ra sân bay đón. Rồi quản lý cả micro project, UN cho mỗi gia đình vài trăm đô để định cư, có lẽ có cả gia đình lão Dân Nguyễn mà mình không biết. Quả đất tròn và bé tý.

hieuminh.org


Khám phá thêm từ Thanh Thúy

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không hiển thị công khai. Các mục bắt buộc được đánh dấu *