Thanh Thúy – Huyền thoại không bao giờ lặp lại (Thiên Ca)

 

 

uot_mi

 

Thanh Thúy xin chân thành cảm tạ Luke đã cung cấp tài liệu này

 

TRỊNH CÔNG SƠN VÀ ẢO ẢNH THANH THÚY (Sưu tầm từ web)

Giọng ca Thanh Thúy trước 1975 được gọi là “Huyền thoại không bao giờ lặp lại”, và hình ảnh của chị được coi như “người tình trong mộng của nhiều thế hệ”. Nhiều nhạc sĩ, thi sĩ đã lấy cảm hứng sáng tác từ người ca sĩ này như Trúc Phương, Tôn Thất Lập, Trịnh Công Sơn, v.v… Riêng nhạc sĩ họ Trịnh với 2 ca khúc nổi tiếng được tác giả khẳng định là “viết từ những giọt nước mắt của Thanh Thúy”: “Ướt mi” và “Thương một người” đã làm nên tên tuổi thời đầu ông bước vào âm nhạc.

Dưới đây là bài của Thiên Ca viết về trường hợp Thanh Thúy và Trịnh Công Sơn.
Thanh Thúy – Huyền thoại không bao giờ lặp lại

Những tháng ngày dài mình nghe những bản thu âm của Thanh Thúy trước 1975. Thanh Thúy không hát. Dường như chị chỉ đang kể, đang tự sự và kéo lê những cuộc tình, những kỷ niệm, những mảnh đời trĩu buồn vào lòng của đêm. Chị là hiện thân của âm nhạc phòng trà ngày xưa và chị cũng là huyền thoại đầu tiên của các diva nhạc vàng thuở ấy.

Thanh Thúy có âm giọng trầm và chị cũng thường đẩy ca khúc xuống tông thấp nhất có thể… Nhưng nếu có một so sánh duy nhất về tiếng hát Thanh Thúy, thì đó là những giọt mưa rớt xuống từ trời cao, từng giọt, từng giọt đau buốt nhưng cũng mê đắm ngọt ngào, ảo ảnh. Giọng trầm nhưng càng nghe lại càng thấy như những sợi tơ âm thanh, dệt mãi dệt mãi thành tấm rèm đêm hư ảo lệ đời.
Trong âm nhạc Việt Nam chưa từng có ai có giọng hát đặc biệt như vậy, không lẫn với bất cứ ca sỹ nào và cũng không ai bắt chước theo nổi. Ngày đó cũng có ca sỹ Nhật Thiên Lan có chất giọng trầm như vậy nhưng chiều sâu cảm xúc thì không thể sánh với Thanh Thúy. Thanh Thúy có tiếng hát của khổ lệ, tự nhiên bật ra cái chất bi chứ chị không hề cố rên rỉ. Nghe Thanh Thúy ca, đôi khi lại nhớ đến Cher, ca sỹ má mì diva có giọng ồm ồm mị lực.

Chị đi hát từ năm 15 tuổi (1959) để nuôi mẹ đang bị bệnh nặng. Hát là con đường sống của chị cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ngày đó chị hay hát ở các phòng trà Văn Cảnh, Văn Hoa, Arc en ciel… và theo như lời chị tâm sự trong một băng nhạc thì phòng trà đầu tiên chị hát Đức Quỳnh (Văn Hoa) trên đường Cao Thắng (Bây giờ là rạp Thăng Long).

TRỊNH CÔNG SƠN, ƯỚT MI…

Ai đọc những cuốn sách viết về Trịnh Công Sơn chắc hẳn đều đọc bài viết của ông về ca khúc đầu tay Ướt mi. Đó là ca khúc TCS viết về Thanh Thúy và chính Thanh Thúy là người đầu tiên khiến người ta biết đến Trịnh Công Sơn, Khánh Ly chỉ phổ biến rộng hơn về sau này.

Theo như lời TCS viết, trước đó ông cũng sáng tác một số bài như Sương đêm, Chơi vơi… “Nhưng riêng bài Ướt Mi thì tồn tại như một số phận, của nó và của tôi”, do đó có thể coi Ướt Mi là tác phẩm đầu tay của Trịnh Công Sơn chính thức được công bố (viết năm 1958, Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959.
Trong một tối, Trịnh Công Sơn đã cùng một vài người bạn đến Mỹ Cảnh, một phòng trà nổi tiếng của Sàigòn thời ấy để uống rượu và nghe nhạc. Tình cờ ông được nghe tiếng hát của một ca sĩ chỉ mới 15 tuổi, người Huế: Thanh Thúy. Giọng ca trầm buồn và phong cách trình diễn đơn giản của Thanh Thúy đã gây cho TCS ấn tượng đặc biệt. Ngay trong đêm nhạc đó, nhạc sỹ đã viết một mảnh giấy nhỏ đề nghị Thanh Thúy hát bài Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong. Thanh Thúy nhỏ nhẹ cám ơn, rồi cất tiếng hát. Khi hát do có tâm sự riêng, nghe đâu cha cô vừa mất trước đó vài tháng và mẹ cô bị lao phổi đang trong tình trạng trầm trọng. Cô đã không kiềm chế được cảm xúc, cứ để cho tình cảm tràn đầy, cô vừa hát vừa khóc…
Trịnh Công Sơn kể lại: “Thuở còn trọ học ở Sài Gòn, năm đó tôi mười bảy tuổi – Sơn kể – đêm nào tôi cũng lò dò đến phòng trà ca nhạc để nghe Thanh Thúy hát. Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã ăn sâu vào trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẳn. Vì tôi nhỏ tuổi hơn, lại nhiều mặc cảm nghèo và vô danh. Trong khi đó Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên, kẻ đón người đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu hình ảnh và tiếng hát của nàng. Có đêm tôi chỉ đủ tiền để mua một ly nước chanh. Đêm đêm tôi thao thức với những khát khao, mơ ước là phải làm một cái gì đó để tỏ cho Thanh Thúy biết là tôi đang rất ngưỡng mộ nàng”.

Sau khi quay về Huế, có lẽ vào một đêm mưa, cơn mưa của Huế, nhạc sỹ TCS đã nhớ lại những giòng nước mắt lăn dài trên má của cô ca sĩ trẻ với số phận bất hạnh: “Những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ. Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tôi e cũng đã từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia. Những giọt nước mắt đó đã trở thành một ám ảnh, thôi thúc làm bùng lên ngọn lửa sáng tạo đang âm ỉ cháy trong tôi. Và, tôi đã viết ra như không kiềm giữ được:

Buồn ơi trong đêm thâu Ôm ấp giùm ta nhé Người em thương mưa ngâu Hay khóc sầu nhân thế Tình ta đêm về có ấm từng cơn mưa em chưa (…)

Bài hát Ướt Mi được giới trẻ miền Nam đón nhận nồng nhiệt vào những năm 1959-1960, đặc biệt khán giả Nhật Bản cũng rất thích bản nhạc này, một phần do dàn nhạc giao hưởng của Nhật đã thu và trình diễn. Với âm điệu đó, ngôn từ đó hình như anh đã nói thay họ những gì trong cái góc riêng tư, sâu kín nhất mà họ không thể nói được. Nhật Bản bi lệ trong âm nhạc nên thích Ướt mi là điều dễ hiểu.

Trong cuốn sách về TCS, có đoạn viết: Tiền bản quyền của ca khúc Ướt Mi mà Nhà xuất bản An Phú đã trả cho TCS là 5.000 đồng (5), một số tiền quá lớn. Anh đã bất ngờ với số tiền mà mình nhận được. “Dạo ấy, trong đầu hoàn toàn chưa có một khái niệm nào về tiền tác quyền. Ở tuổi hai mươi, trong tâm trí đang còn phơi phới những ý đồ hiệp sĩ. Số tiền năm ngàn hồi ấy quá lớn đã được dùng một phần tặng người ca sĩ và phần còn lại chia đều cho các bạn cùng ở trọ. Mỗi tháng tiền ăn ở cho một học sinh, sinh viên chỉ có năm sáu trăm đồng. Nguồn cảm hứng đầu tiên ấy đã làm cơ sở cho một loạt những cảm xúc khác thành hình. Như một khu rừng mùa thu yên tĩnh được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng dậy, tâm hồn tôi đã bắt đầu biết xôn xao theo những tín hiệu, dù nhỏ nhất của cuộc sống. Tôi không còn nhìn ngắm cuộc sống một cách lơ đãng như trước nữa mà càng lúc càng thấy mình bị cuốn về phía những tình cảm phức tạp của con người. Những trái cây đầu mùa ấy còn vụng về, chưa có vóc dáng riêng, nhưng nó mang đến niềm thích thú để từ đó sẵn lòng làm một cuộc hành trình dài lâu đi vào cái bề sâu của âm thanh và ngôn ngữ.”.

TRỊNH CÔNG SƠN, THƯƠNG MỘT NGƯỜI…

Một năm sau, năm 1959, một lần nữa, Sơn viết một bài khác, cũng để tặng người đã hát bài hát đầu tiên của mình. Bóng dáng người nữ ca sĩ nhỏ nhắn đêm đêm mặc áo dài, sau xuất hát hấp tấp bước vào ngõ tối trên đường Cao Thắng trở về nhà với mẹ. Đó là ca khúc Thương Một Người như để chia sẻ trên đôi vai cô ca sĩ trẻ sớm gánh chịu nỗi nhọc nhằn.

Thương ai về ngõ tối Sương rơi ướt đôi môi Thương ai buồn kiếp đời lạnh lùng ánh sao rơi.
Thương ai về xóm vắng Đêm nay thiếu ánh trăng Đôi vai gầy ướt mềm người lạnh lắm hay không.
Thương nụ cười Và mái tóc buông lơi Mùa thu úa trên môi Từng đêm qua ngõ tối Bàn chân âm thầm nói
Lặng nghe gió đêm nay Ngại ai buốt đôi vai Bờ vai như giấy mới Sợ nghiêng hết tình tôi

Cũng dễ thấy Ướt Mi ít nhiều ảnh hưởng của ca khúc Giọt mưa Thu của cố nhạc sỹ chán đời tiền chiến Đặng Thế Phong, nhưng Thương một người đã dần hình thành nên phong cách đặc trưng của nhạc sỹ họ Trịnh.

Không lâu sau đó, mẹ Thanh Thúy mất, cũng là lúc cô ca sĩ có giọng hát u trầm lơ lửng với khói sương hay mặc áo dài trắng, lam nhạt trở nên nổi tiếng lừng lẫy. Còn chàng nhạc sĩ Huế vô danh mang theo tình cảm đẹp với cô ca sĩ tóc đen xõa lưng thon vào Đà Lạt để rồi ở đó anh gặp… một cô ca sĩ khác cũng đặc biệt không kém, một giọng ca đưa tên tuổi anh đến mọi nơi.

ẢO ẢNH THANH THÚY

Giáo sư – triết gia Nguyễn Văn Trung có một bài luận mang tên Ảo ảnh Thanh Thúy, tạm trích hai đoạn: “Thường một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ. Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con người của mình.

Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý đến khán giả, không tự giới thiệu, đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm, mà không đưa mắt nhìn vào khán giả. Lúc hát không làm một cử động nào, hai tay luôn luôn nắm lấy cây sắt của máy vi âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên lướt qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai. Thanh Thúy không nhìn ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim…

Đứng trướcThanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả như thấy bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt một hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê , đồng ruộng , với sông Hương , núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định…Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn đó.

Với tôi Thanh Thúy là nhạc vàng, là Sài Gòn đèn vàng là một không gian âm nhạc tôi hay tìm về, nghe, tưởng tượng như một gã hoài cổ nặng nghiệp những đêm mưa, những đêm gió. Trước đó tôi nghe Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly… nhiều hơn nhưng cũng do người yêu – bạn tri âm Trác Thúy Miêu mà tôi bị nghiện Thanh Thúy theo nàng. Tôi nhớ có một đêm mưa, cậu bạn gửi về cho mấy đĩa nhạc Thanh Thúy trước 75, tôi đã sướng điên đi lấy về và biết chắc, nàng Miêu sẽ thích lắm khi nhìn thấy. Nhiều tối hai đứa nghe Thanh Thúy với nhau, nghe đi nghe lại cả đêm, phía ngoài cửa sổ, Sài Gòn đêm vàng rũ những hàng me trong gió lạnh, ánh sáng từ cây đèn bão treo ngoài hắt bóng lên tường rung rinh, ảo ảnh.
Tự nhiên ngồi nghĩ lại những con hẻm Sài Gòn ngày xưa, liệu nó có buồn như những con hẻm ngoài Hải Phòng không? Hồi những năm 90, hẻm vắng Hải Phòng cũng buồn thê lương, buồn vì nghèo, vì người dân đóng chặt cửa trong nhà vì sợ ngoài đường đêm loạn lạc, cướp bóc. Ngõ hẻm ngày ấy không lát gạch mà đa số là đường đất, tường vôi vàng tróc lở… Một vùng ký ức cứ như ảo ảnh, lúc gần lúc xa, lúc như vẫn còn đâu đây.

Tôi luôn có cảm giác mình đã đánh mất một màu sắc cũ nào đó từ khi còn rất nhỏ, có thể là một giai điệu, một âm thanh, màu sắc thời gian nào đó, cứ mơ hồ ám ảnh mãi trong tâm trí. Lớn lên mò mẫm sưu tầm đủ thể loại nhạc để nghe thì nghiêng hẳn về âm nhạc dân gian châu Âu, nhạc phục hưng, nhạc tạp kỹ Đông Âu và nhạc vàng. Trong số nhiều bản thu trước năm 75, đôi khi tôi tìm thấy màu sắc đó, cũng chỉ thoáng qua không định hình được đó là gì cụ thể, nhưng trong màn sương khói ảo ảnh đó, tôi như được quay lại cái hẻm nhỏ từ thời Pháp ở HP từ lúc 6, 7 tuổi trước khi bà ngoại mất… hoặc một điều gì đó xa hơn, xa hơn như một mảnh đời từ kiếp nào vậy”…

 

 

2 comments on “Thanh Thúy – Huyền thoại không bao giờ lặp lại (Thiên Ca)

Bình luận về bài viết này